Thứ Bảy, 4 tháng 3, 2023

Cả thế giới là con nợ, vậy ai là chủ nợ?

Cả thế giới giờ là con nợ, vậy ai là chủ nợ?


Debt cycle
Nguồn: Ray Dalio

Thử xem trên thế giới hiện nay nước nào vay nhiều nhất? Hình bên dưới là top 10 quốc gia có mức nợ lớn nhất hiện tại:

Hình 1: List các quốc gia nợ nước ngoài[1]


Nguồn: Wikipedia

Cần giải thích một chút, đây là giá trị nợ hiện tại mà các quốc gia đang vay nợ từ các cá nhân hay các thực thể kinh tế ngoài đất nước, do thương mại luôn có hai chiều nên các quốc gia này cũng đồng thời cho các quốc gia khác vay nợ. Do đó muốn đánh giá quốc gia nào đang là quốc gia cho vay (tức là thặng dư tài chính) hay là quốc gia đang mắc nợ (tức là làm ra thì ít mà tiêu pha thì nhiều nên phải vay thêm bên ngoài để tiêu) thì phải lấy giá trị mà họ cho vay trừ đi giá trị họ vay, thuật ngữ tài chính gọi là NIIP (net international investment positions). Nếu NIIP dương thì là quốc gia đang làm ra của cải nhiều hơn chi tiêu.

Ở list trên, Mỹ là con nợ khủng nhất với giá trị nợ là 31 ngàn tỷ đô la (USD). Tiếp theo là Anh với 8.7 ngàn tỷ, Pháp với 7 ngàn tỷ, Ý với 2.5 ngàn tỷ (hiện đã lên tới 3 ngàn tỷ!), Canada với 3.2 ngàn tỷ (hiện đã giảm còn 1.2 ngàn tỷ) đô la. Các nước như Đức, Nhật và Trung Quốc tuy có nợ cao nhưng giá trị họ cho vay còn cao hơn nên không tính.

Cả thế giới ai cũng nợ thì tiền đến từ đâu và ai là người cho vay?

Nguồn tiền chủ yếu sinh ra thông qua việc phân bổ lại các khoản tiết kiệm đã có trong nước. Ví dụ, các công ty hưu trí sử dụng tiền tiết kiệm hưu trí và các công ty công nghiệp sử dụng tiền lợi nhuận của công ty để mua trái phiếu của chính phủ (nói cách khác là cho nhà nước vay) hoặc mua trái phiếu có bảo đảm (tức là cho ngân hàng vay tiền và sau đó ngân hàng cho những người nắm giữ tài sản như bất động sản vay tiền). Nếu vẫn còn thâm hụt sau khi phân bổ lại trong các lĩnh vực trong nước, các quốc gia có thể huy động tiền từ các quốc gia có thặng dư tài chính. Điều này không nhất thiết phải ở dạng cho vay; chẳng hạn, quốc gia có thặng dư tài chính có thể mua tài sản như cổ phiếu, bất động sản hoặc trái phiếu của quốc gia bị thâm hụt.

Hình 2: List các công ty thặng dư tài chính hay có NIIP dương


Nguồn: Wikipedia

Các quốc gia vùng vịnh không có trong list này, có lẽ do số liệu tài chính của họ không công khai hoặc không thể thống kê chính xác. Thực tế các quốc gia sản xuất dầu luôn là quốc gia cho vay, là các quốc gia thặng dư tài chính. Ngoài ra các quốc gia có truyền thống thặng dư tài chính cao là Đức, Nhật, Trung Quốc…Hiện tại NIIP cao nhất là Nhật Bản với thặng dư 2.8 ngàn tỷ USD, Đức và Trung Quốc tương đương nhau là 1.6 ngàn tỷ USD[2].

Khủng hoảng kinh tế và chu kỳ thắt mở tín dụng

Có rất nhiều số liệu kinh tế có tương quan với các đợt khủng hoảng kinh tế, trong đó chu kỳ nợ là một trong các yếu tố liên quan mật thiết. Chu kỳ thắt - mở tín dụng cứ lặp lại muôn thuở theo một nguyên tắc là cứ kinh tế suy thoái thì các chính phủ in tiền ra kích thích chi tiêu, ví dụ như Mỹ đã bơm ra thị trường 4 ngàn tỷ đô trong những năm 2008-2014 thông qua các gói QE để kích thích kinh tế sau khủng hoảng tài chính 2008; trong thời kỳ dịch bệnh Covid 2019, trong hai năm 2020-2021 Mỹ cũng đã bơm khoảng 3.5 ngàn tỷ đô ra thị trường. Tiền nhiều trôi nổi bên ngoài chắc chắn sẽ làm giá cả tài sản tăng, lạm phát tăng, các kiểu bong bóng bất động sản hay chứng khoán hình thành. Khi các tài sản tăng giá quá nóng, lạm phát tăng cao lên mức 8-9% như ở Châu Âu và Mỹ, nguy cơ gây đổ bể hoặc bắt đầu có dấu hiệu đổ bể thì các chính phủ vội vã thu tiền về lại hay gọi là thắt chặt tín dụng. Giá tài sản xì hơi, nhà đầu tư chết dở, kinh tế thì trì trệ, ai cũng giữ tiền, không muốn chi tiêu mà cũng chẳng muốn cho ai vay, thế là ta đã nghiễm nhiên ở trong một chu kỳ suy thoái. Nghịch lý là khi ngân hàng cho vay một khoản vay thì lập tức sẽ có một lượng tiền mới xuất hiện trên thị trường, là doanh thu của người này và công ăn việc làm của người kia, còn khi ngân hàng thu tiền về thì tiền cứ thế biến mất chứ không phải là thu về để cho người khác vay. Vì tiền sinh ra từ hư không nên thu về cũng trở thành hư không.

Chu kỳ tín dụng theo công ty Western Asset[3]: Giai đoạn mở rộng (Expansion) thường gắn liền với các tiêu chuẩn cho vay tương đối dễ dàng, nguồn vốn sẵn có, lượng vay mượn gia tăng và số liệu đòn bẩy gia tăng. Suy thoái (Downturn) bắt đầu khi các công ty tranh giành nguồn lực để đáp ứng các nghĩa vụ trả nợ gia tăng do tăng trưởng kinh tế bị đình trệ. Các tiêu chuẩn cho vay thắt chặt và chi phí đi vay tăng lên. Vốn khả dụng bị giảm và chỉ các thực thể cấp cao nhất mới có thể tiếp cận được. Khi tính thanh khoản giảm đi, các công ty bắt đầu phá sản và tỷ lệ vỡ nợ tăng lên. Giai đoạn sửa chữa (Repair) được ghi nhận khi các công ty có thể ngăn chặn sự suy giảm các điều kiện tín dụng cơ bản bằng cách bổ sung thanh khoản và ổn định bảng cân đối kế toán của họ. Thanh khoản được tăng cường và giảm đòn bẩy bằng nhiều biện pháp bao gồm cắt giảm chi phí, phát hành cổ phiếu và bán tài sản. Khi dòng tiền tự do bắt đầu tăng và tỷ suất lợi nhuận tăng, các công ty bước vào giai đoạn phục hồi (Recovery). Sau khi đã vượt qua giai đoạn khó khăn, các công ty vẫn thận trọng và duy trì sự tập trung vào quản lý bảng cân đối cho đến khi đạt được mức tăng trưởng bền vững, mở ra một giai đoạn mở rộng khác.

Hình 3: Chu kỳ tín dụng 4 pha


Khả năng cao là hiện tại chúng ta đang ở trong giai đoạn sửa chữa. Đã có khá nhiều tín hiệu tốt cho thấy giai đoạn này sẽ hoàn thành vào cuối năm 2023 để mở đầu cho thời kỳ bắt đầu phục hồi vào năm 2024.

Hình 4: Nợ toàn cầu trong 51 năm qua

Để cứu nguy kinh tế trong đại dịch COVID-19 (bệnh viêm đường hô hấp cấp do virus SARS-CoV-2 gây ra), các nước bơm ra một lượng tiền lớn trong năm 2020, đẩy mức nợ toàn cầu nhảy vọt 29 điểm %, đạt mức 257% GDP vào năm 2020. Sau đó hạ nhiệt giảm nhanh 10% vào 2021 và đã tiếp tục giảm khoảng 12% nữa trong năm 2022 thông qua các biện pháp thắt chặt tín dụng để giảm lạm phát[4]. Tín dụng giảm chắc chắn là kinh tế suy thoái, điều này đã xảy ra trong hai năm 2021-2022, theo kinh nghiệm hai đợt suy thoái trước thì mất khoảng một năm nữa thì kinh tế mới hồi phục, điều này hoàn tương quan với kế hoạch tiếp tục tăng lãi suất tiếp tục của Fed trong năm 2023. Đồng đô la Mỹ là đồng tiền mạnh, do đó các nước khác muốn nới lỏng tiền tệ thì phải nhìn Fed để làm theo, Fed thắt chặt thì các nước khác đều phải thắt chặt theo, nếu không sẽ bị rơi vào tình cảnh phá giá tiền tệ. Fed nới lỏng thì chắc chắn các nước buộc phải nới lỏng, nếu không đồng nội tệ sẽ tăng giá gây bất lợi cho nền kinh tế. Đó chính là thời điểm mọi cá nhân đều có tiền, giá tài sản tăng, ai cũng cảm thấy giàu có hơn, chi tiêu mạnh hơn, lãi suất giảm mạnh nên các công ty vay tiền nhiều hơn cho đầu tư, đó chính là thời điểm kinh tế phục hồi.

Nhân loại sống chung với nợ đến bao giờ?

Liệu chúng ta có thể sống mà không cần nợ? Đã có nhiều nghiên cứu cho thấy một thế giới không nợ là một thế giới không tưởng. Bản chất sự thịnh vượng của loài người là nhờ nợ. Thêm nữa, văn hóa chúng ta khuyến khích nợ, đến trẻ con bây giờ cũng biết tiêu dùng nhiều là tốt cho nền kinh tế, là yêu nước. Văn hóa sở hữu tài sản và tiêu dùng luôn được cổ xúy thì làm sao phía kêu gọi tiết kiệm cân bằng lại được. Sinh viên kinh tế nào chẳng được dạy là nợ là tốt, doanh nghiệp không nợ là chưa biết khai thác sức mạnh đòn bẩy tài chính.

Chúng ta cứ trải qua các chu kỳ thắt chặt nợ rồi nới lỏng nợ, kèm theo các nổi đau kinh tế lặp đi lặp lại muôn thuở. Cơ bản là chúng ta giải bài toán khủng hoảng nợ chỉ bằng cách tăng thêm nợ; việc giữ nguyên tỷ lệ nợ hoặc giảm tỷ lệ nợ quốc gia là điều không tưởng. Điều đáng nói là mức nợ cứ ngày càng tăng, hiện là 250% GDP, rồi sẽ tới 500, 1000% GDP…, thế giới sẽ ra sao nếu mức nợ cứ tăng tiếp tục như vậy? Rõ ràng là thế giới vẫn đang phải mò mẩm trong một cuộc thử nghiệm tài chính trên quy mô khổng lồ mà chưa có hồi kết.

Phan Đình Long

[1] https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_countries_by_external_debt

[2] https://en.m.wikipedia.org/wiki/List_of_countries_by_net_international_investment_position_per_capita

[3] https://www.westernasset.com/us/en/research/whitepapers/where-are-we-in-the-credit-cycle-2018-01.cfm

[4] https://www.reuters.com/markets/global-debt-sees-first-annual-drop-since-2015-iif-2023-02-22/

Thứ Bảy, 12 tháng 11, 2022

Review ngắn ngành thép (Phần 2)

 Lên đỉnh năm 2021

Năm 2021 là một năm thành công rực rỡ ngoài mong đợi của ngành thép Việt Nam, chủ yếu hưởng lợi từ nhu cầu xuất khẩu trong tình hình khó khăn của các khu vực sản xuất và tiêu thụ thép lớn như Trung Quốc, Châu Âu, Mỹ… do đứt chuỗi cung ứng toàn cầu do dịch bệnh Covid 19. Xuất khẩu thép năm 2021 đạt kết quả rất tốt: 14 triệu tấn thép bán thành phẩm và thành phẩm với trị giá khoảng 12.7 tỷ đô la.

Sản lượng thép thô đạt 23 triệu tấn, tăng 16% so với năm 2020. Sản lượng thép thành phẩm các loại đạt gần 34 triệu tấn, tăng 19% y-o-y! Trong lúc tiêu thụ trong nước chỉ đạt hơn 22 triệu tấn, giảm 5,5% so với năm 2020.

Vòng xoáy đi xuống 2022

Khởi đầu là lời “tiên tri” u ám từ chủ tịch HP Trần Đình Long vào tháng 5/2022 "cổ đông cứ đợi kết quả kinh doanh quý 2, quý 3, quý 4 rồi sẽ thấy. Lúc này ngành thép đang không thuận lợi. Đợi hai tháng nữa sẽ có kết quả kinh doanh quý 2, cổ đông sẽ thấy tình hình thê thảm thế nào”[1].

Ngày 30/9/2022 Pomina thông báo ngừng sản xuất lò cao (BF) duy nhất của họ và chỉ còn sản xuất lò điện (EAF)[2].

Ngày 25/10/2022 Thép Miền Nam- VN Steel thông báo cho CB-CNV nghỉ luân phiên dài hạn từ tháng 10-12/2022[3].

Ngày 4/11/2022 Hòa Phát thông báo ngưng sản xuất hai lò cao ở KLH Gang thép Dung Quất và hai lò cao ở KLH Gang thép Hải Dương. Hiện nay Hòa Phát đang có tổng cộng 7 lò cao luyện thép gồm 4 lò ở Dung Quất và 3 lò ở Hải Dương. Như vậy, 4/7 lò cao của Hòa Phát đã dừng hoạt động vì đầu ra chậm. Dự kiến họ sẽ dừng tiếp một lò cao ở Dung Quất trong tháng 12 tới đây[4].

Ngày 11/11/2022 Formosa Hà Tĩnh thông tin sẽ cắt giảm 15% sản lượng do phải chịu tác động bởi tình trạng dư cung thép và đã cố gắng đẩy mạnh xuất khẩu, song nhu cầu nhập khẩu từ Mỹ và châu Âu không cao như dự kiến[5].

Nguyên nhân ngành thép suy giảm thì nhiều, trong đó vẫn yếu tố chính vẫn là chính sách thắt chặt tiền tệ đang lan rộng trên toàn cầu, bắt đầu từ ngân hàng trung ương Mỹ, FED để chống lạm phát. Đồng đô la tăng giá mạnh làm cho đồng tiền các nước nhanh chóng mất giá dẫn đến các nước buộc phải thực thi các chính sách tiền tệ như tăng lãi suất ngân hàng, điều chỉnh tỷ giá hối đoái dẫn đến thắt chặt hơn về nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh, bên cạnh việc thiếu hụt khí đốt, xăng dầu do cuộc chiến Nga Ukraina…. Nhu cầu về hàng hóa lâu bền như xe ô tô hay đầu tư xây dựng, hạ tầng, công nghiệp trên thế giới giảm mạnh kéo theo giảm nhu cầu thép. Trong nước thì ngành xây dựng và bất động sản chậm lại đáng kể tạo áp lực thêm cho nhu cầu thép nội địa.

Dự báo sản xuất tiêu thụ thép năm 2022 sẽ giảm mạnh từ mức nền cao của năm 2021. Theo báo cáo của Hiệp Hội Thép Việt Nam (VSA), tính cho 10 tháng đầu năm, sản xuất thép thành phẩm 10 tháng đầu năm 2022 đạt 25,31 triệu tấn, giảm 8,7% so với cùng kỳ năm 2021. Bán hàng thép thành phẩm đạt 23,159 triệu tấn, giảm 6% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó xuất khẩu đạt 5,316 triệu tấn, giảm 16,6% so với cùng kỳ năm ngoái![6]

Đây cũng là xu hướng chung của ngành thép toàn cầu. Theo báo cáo của Hiệp Hội Thép thế giới (WSA) thì sản lượng thép thô 9 tháng đầu năm của 64 quốc gia thuộc hiệp hội giảm 4.3% tương đương 63 triệu tấn[7].

Hình 1: Sản lượng thép thô 9 tháng đầu năm của 64 quốc gia thuộc WSA

Nguồn: WSA

Điều gì đang chờ ở phía trước?

Trước hết, theo IMF thì việc thắt chặt tiền tệ của Fed sẽ cần cả năm mới thấy hiệu quả, nghĩa là khoảng giữa năm 2023, nếu đảo chiều chính sách thì kinh tế lại mất cả năm nữa mới hồi phục lại mức cũ, nghĩa là giữa năm 2024.

Cuộc chiến Nga Ukraine thì sẽ không dể kết thúc một sớm một chiều khi mà Mỹ và châu Âu vẫn tiếp tục hỗ trợ Ukraine và ông Putin vẫn còn cảm thấy bị đe dọa, mùa đông sắp tới là một thử thách lớn cho cả hai bên, tuy nhiên là chủ nhà thì vẫn có chút ưu thế hơn!

Trung Quốc có một số thông báo nới lỏng chính sách cách ly Covid cho du khách xuất nhập cảnh gần đây, tuy nhiên mức độ rất hạn chế và chưa biết hiệu lực vào ngày nào. Nhiều tin đồn đoán về việc nới lỏng chính sách Zero Covid sẽ thực hiện vào mùa xuân tới hoặc quý II năm 2023. Dù sao thì cả dân chúng TQ và nền kinh tế cũng khó có thể chịu đựng được lâu hơn nữa đối với những chính sách này, rất khó để trì hoãn việc mở cửa lại nền kinh tế.

Mong muốn sớm chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ phụ thuộc nặng vào lĩnh vực đầu tư hạ tầng và bất động sản, nhà ở sang các mô hình bền vững hơn của Trung Quốc khó mà thực thi một sớm một chiều khi mà mới bắt tay thực hiện thi đã hầu như làm tê liệt thị trường BĐS và nhà ở. Gần đây chính phủ đang nỗ lực giải cứu các công ty BĐS đang ngập ngụa trong nợ nần. “Các đơn vị phát hành trái phiếu chính quyền địa phương (Local government financing vehicles - LGFV) hiện là bên mua lớn nhất của những dự án dở dang từ các công ty bất động sản vỡ nợ, bao gồm cả China Evergrande Group”[8]. Trung Quốc có kế hoạch rà soát các chính sách giải cứu toàn diện để ngăn chặn khủng hoảng tài sản[9].

Các phiên gần đây cho thấy thị trường chứng khoán Việt Nam giảm mạnh nhất toàn cầu[10], điều này chắc chắn sẽ đặt ra những câu hỏi và giải pháp cấp bách cho các nhà quản lý. Do VN còn là một nền kinh tế mới nổi nên tỷ trọng ngành bất động sản và tài chính trong thị trường chứng khoán là khá lớn, biểu đồ dưới đây cho thấy tỷ trọng vốn hóa ngành năm 2020, trong đó tài chính ngân hàng chiếm 29% và BĐS chiếm 24%, tổng tỷ lệ hơn 50%! Tỷ lệ này vào năm 2022 tương ứng là 35.3% và 21.8% . Để thấy mức độ tác động lớn như thế nào đến TTCK nếu cả hai ngành này bị khó khăn!

Hình 2: Cơ cấu vốn hóa toàn thị trường theo ngành 2020


Nguồn: vneconomy.vn[11]

Hình 3: Số công ty niêm yết và mức vốn hóa theo ngành 9/2022

Thị trường trong nước đã có một số tín hiệu tốt như trong phiên họp thường kỳ tháng 10 năm 2022, chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính cung cấp đủ vốn cho nền kinh tế và tháo gỡ khó khăn cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp và sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP nếu cần[12].

Ngành thép trong 15 năm trở lại đây thì có ba lần cứ một năm xấu thì có hai năm tốt, như năm 2008, 2011 và 2014. Trường hợp mới nhất là hai năm xấu liên tiếp là năm 2018 và 2019, theo sau là hai năm tốt (ngoài dự kiến do dịch bệnh). Năm 2023 các dự báo đều rất khó khăn tuy nhiên xác suất phục hồi vẫn có nếu các vấn đề đã nêu trên được xử lý tốt.

Xác suất cao nhất là ngành thép phục hồi vào năm 2024 mặc dù đây là năm bầu cử tổng thống Mỹ, sẽ có nhiều chính sách mới tuy nhiên hy vọng là không ảnh hưởng nhiều đến ngành thép như năm 2018-2019.

Bài viết mang tính chất cá nhân, không đại diện cho các cơ quan và tổ chức tác giả đang làm việc hay cộng tác.

Phan Đình Long


Thứ Năm, 23 tháng 6, 2022

Trời vẫn xanh và mây vẫn bay

Ở Mỹ, CPI tháng 5/2022 là 8,5% trong đó CPI lõi, không bao gồm giá thực phẩm và năng lượng, là 6,2% so với một năm trước[1]. Chỉ số lạm phát lõi rất cao so với các nước, chẳng hạn Đức, CPI tháng 5/2022 là 7.9% với lạm phát lõi chỉ là 3.8%[2]. Như vậy vấn đề lạm phát ở Châu Âu là giá năng lượng - lạm phát do chi phí đẩy- liên quan trực tiếp tới cuộc chiến ở Ukraine, lạm phát ở Mỹ còn đau đầu hơn, có lẽ là có đủ cả 3 loại lạm phát chi phí đẩy (cost-push inflation), lạm phát cầu kéo (demand-pull inflation) và cả lạm phát có sẵn (built-in inflation), một dạng lạm phát do kỳ vọng của mọi người, một vòng tròn luẩn quẩn vật giá tăng thì tăng lương, lương tăng lại làm vật giá tăng. Ngày 10/6, Chris Zaccarelli, Giám đốc đầu tư của Independent Advisor Alliance, cho biết lạm phát diễn ra trên diện rộng ở nhiều danh mục khác nhau, cho thấy vấn đề nằm sâu xa hơn là do sự gián đoạn tạm thời do tắc nghẽn chuỗi cung ứng hoặc do cuộc chiến ở Ukraine[3]. Có lẽ ổng muốn đề cập đến gói cứu trợ covid 19 trị giá 1900 tỷ của ông Biden vào năm ngoái chăng!? Hình ảnh đính kèm cho thấy tình tắc nghẽn tại các cảng chính của TQ và của Châu Âu đã giảm đáng kể.

Để đối phó, Fed chắc chắn duy trì đà tăng lãi suất trong 1-2 năm tới, các nhà kinh tế dự đoán lãi suất Fed sẽ ở vào 3.4% cuối năm 2022, sau đó là 3.8% trong năm 2023 và trở lại 3.4% trong năm 2024. Kế hoạch của Fed là đưa lạm phát về 2.3% vào năm 2024. Các cuộc họp sắp tới của Fed là vào tháng 7, tháng 9, tháng 11 và tháng 12 năm  nay. Như vậy, khả năng rất cao là Fed sẽ thêm 3 lần tăng LS trên 0.5% nữa để đạt mức 3.4%.

Vào ngày 19/6, tổng thư ký NATO, ông Stoltenberg nói rằng cuộc chiến ở Ukraine có thể còn kéo dài trong nhiều năm[4].

Chính sách zero Covid của TQ sẽ không có gì thay đổi ít nhất cho hết mùa thu năm nay, sau khi hoàn thành đại hội đảng 20.

Rõ ràng là thế giới phải sống chung với những điều này, trước nay đều như vậy! Các pháp vốn vô thường, nền kinh tế cũng vậy, sự ổn định chỉ là nhất thời, biến động là mãi mãi!

Đình Long



[1] https://www.cnbc.com/2022/06/10/consumer-price-index-may-2022.html

[2] https://ycharts.com/indicators/germany_core_inflation_rate

[3] https://www.forbes.com/advisor/investing/why-is-inflation-rising-right-now/

[4] https://www.reuters.com/world/europe/russias-war-ukraine-could-last-years-natos-stoltenberg-says-2022-06-18/


Thứ Sáu, 17 tháng 6, 2022

Review ngắn ngành thép

 Chu kỳ thép

Đã từ lâu các nhà đầu tư, nhất là trên thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng, đều xác định ngành thép là ngành có tính chu kỳ. Đầu tư cổ phiếu ngành thép, hay bất kỳ ngành có chu kỳ nào bằng cách mua vào ở giai đoạn thấp điểm và bán ra ở giai đoạn cao điểm là chiến lược tốt nhất. Chỉ có điều không dể dàng gì để xác nhận được chu kỳ ngành để tiến hành ra vào thị trường đúng nhịp. Người ta chỉ biết ngành đã vào chu kỳ suy thoái khi nó đã suy thoái!!!

Hình 1: Biểu đồ thể hiện giảm giá thép cán nóng tại Mỹ (Vui lòng nhấp chuột vào biểu đồ để xem bản lớn)


Nguồn: CNBC

Có một bài phân tích gần đây của trang Steelonthenet cho rằng ngành thép sẽ suy thoái cho đến giữa năm 2023 và phục hồi dần, đạt đỉnh điểm vào Q3,4/2025. Dự báo này dựa trên phân tích chu kỳ của giá thép cán nóng (HRC) và thép dài xây dựng (Rebar) trong vòng 25 năm trở lại đây, một chu kỳ trung bình diễn ra trong khoảng 3-4 năm.

Hình 2: Biểu đồ giá HRC và thép dài trong 25 qua

Nguồn: Steelonthenet.com

Ngành thép có lẽ đã bắt đầu chu kỳ đi xuống từ đầu năm 2022, tuy nhiên cuộc chiến Nga-Ukraine nổ ra làm thiếu hụt cục bộ nguồn cung làm cho nhu cầu có tăng lên một thời gian ngắn trong tháng 3/2022 rồi sau đó tiếp tục suy giảm. Điều này đã được thị trường chứng khoán xác nhận, cổ phiếu thép liên tục giảm giá kể từ cuối năm 2021. Phát biểu của một vị chủ tịch tập đoàn thép lớn cũng đã xác nhận xu hướng này, khi ông cho rằng quý 2,3,4 năm nay sẽ thể hiện sự khó khăn của các công ty thép.

Nhu cầu thép cũng như nhu cầu các loại vật liệu xây dựng và chế tạo khác đều không tăng trưởng như kỳ vọng một khi đại dịch Sars Cov 2 kết thúc. Lý do đầu tiên là các công ty cắt giảm đầu tư do các ngân hàng trung ương, đặc biệt là Mỹ, buộc phải giảm nới lỏng định lượng và tăng lãi suất khi mà lượng tiền bơm ra trong thời kỳ dịch bệnh đã gây ra lạm phát nặng nề ở Mỹ (8.6%, số liệu tháng 5/2022, cao nhất trong vòng 40 năm qua) và cũng như các nước trên thế giới. Lạm phát ở Châu Âu không thua gì ở Mỹ tất cả đều ở đỉnh cao hàng chục năm trở lại đây: Đức 7.6%, Pháp 5.1%, Ý 6.8%, Hà Lan 11%...(Số liệu 3/2022).

Lý do thứ hai là chi phí logistics quá cao do chuỗi cung ứng toàn cầu chưa kịp hồi phục, chẳng hạn trước dịch Covid-19, cước vận chuyển tàu biển chỉ khoảng 1.000 - 3.000 USD/container, còn hiện tại là 14.000 - 15.000 USD/container 40 feet từ Việt Nam đi Mỹ.

Chi phí vận chuyển phụ thuộc rất nhiều vào giá xăng dầu, cuộc chiến Nga-Ukraine đã làm giá đầu tăng vọt từ 90 USD lên 122-130 USD/thùng dầu Brent. Giới chuyên gia còn dự đoán giá dầu còn có thể tiếp tục lên đến mức 140, 150 USD/thùng. Cuộc chiến này như đổ thêm dầu vào ngọn lửa lạm phát khi mà các nước đang chật vật đối phó với cơn bão tăng giá hàng hóa, lương thực, thực phẩm. Họa vô đơn chí, bên cạnh đó là chính sách zero covid của Trung Quốc càng làm trầm trọng thêm việc gãy chuỗi cung ứng cũng nhu làm giảm nhu cầu hàng hóa, nhất là các vật liệu xây dựng như thép.

Nhu cầu thép giảm, đó là dấu hiệu sớm của suy thoái kinh tế. Lý do nhu cầu thép đến từ các ngành công nghiệp lớn trong đó đặc biệt là ngành xây dựng, ngành chế tạo thiết bị và ngành sản xuất xe ô tô, chẳng hạn như ở Mỹ năm 2018, ngành chế tạo ô tô chiếm 28% nhu cầu thép hàng năm, ngành xây dựng chiếm 44%. Tỷ lệ chung trên thế giới năm 2020 thì ngành xây dựng chiếm 49%, ngành chế tạo thiết bị chiếm 16% sau đó mới tới ngành ô tô chiếm 9%.

Hình 3: Thép tiêu thụ xếp theo ngành năm 2018 của Mỹ

Nguồn: AISI Profile 2019 & AcerlorMittal USA Marketing

Hình 4: Thép tiêu thụ xếp theo ngành năm 2020 toàn cầu

Nguồn: Steelonthenet.com

Hình 5: Số lượng xe bán ra giảm 3 tháng 3,4,5 ở Mỹ

Nguồn: Statista

Dù không thể dự báo được thời điểm nhu cầu thép hồi phục một cách máy móc như cách của Steelonthenet ở trên, tuy nhiên, nếu Trung Quốc sớm mở cửa nền kinh tế trở lại, cuộc chiến Nga – Ukraine kết thúc và các ngân hàng trung ương thành công trong việc đưa nền kinh tế hạ cánh an toàn thì nhu cầu thép sẽ sớm tăng trở lại. Hơn nữa, trải qua đại dịch thì xu hướng toàn cầu hóa (globalization) dường như đã chậm hẵn, xu hướng địa phương hóa (localization) quay trở lại, đầu tư sẽ nhiều ở các nước khác thay thế cho “công xưởng” Trung Quốc.

Ngành thép: Đầu tư nóng trở lại

Trái ngược với việc suy thoái của cổ phiếu thép, ngành thép đang đầu tư nóng trở lại với các dự án rất lớn: Dự án Dung Quất 2 của Hòa Phát công suất 5.6 triệu tấn/năm với tổng mức đầu tư dự kiến 85.000 tỷ đồng đã chính thức khởi động từ tháng 12/2021, bên cạnh đó có 2 dự án khủng mới công bố gần đây là dự án thép Xuân Thiện ở Nam Định công suất 8.4 triệu tấn/năm với tổng mức đầu tư 98.000 tỷ đồng[1] và dự án Vina Roma công suất 4.5 triệu tấn/năm ở Quảng Trị với tổng mức đầu tư 47.000 tỷ đồng[2].

Điểm đặc biệt trong thời kỳ này là các công ty chú trọng đầu tư vào thép dẹt mà thép cán nóng (HRC) là chủ lực. Tổng công suất 3 dự án trên là 18,5 triệu tấn, trong đó thép cán nóng là 14,2 triệu tấn năm, chiếm 76% công suất đầu tư.

Thách thức của các dự án đầu tư này chính là những ràng buộc về lượng phát thải CO2 sắp tới khả năng sẽ được áp dụng rộng rải trên toàn cầu. Ngoài dự án Xuân Thiện Nam Định có công bố áp dụng công nghệ DRI (Direct-Reduced Iron) còn các dự án khác vẫn ứng dụng công nghệ truyền thống là lò cao (Blast Furnace).

Ở Mỹ số lò cao đã giảm từ 125 cái vào thập niên 70s xuống còn 40 cái vào năm 2000. Hiện ở Mỹ, sản lượng thép cung cấp bởi lò cao chỉ còn chiếm 30%, còn lại là thép sản xuất từ thép phế bằng lò hồ quang EAF (Electric Arc Furnace) của các mini mill. Xu hướng đầu tư nhà máy mini mill sản xuất thép từ thép phế đã chiếm ưu thế đối với các thị trường Mỹ và Châu Âu đã diễn ra từ lâu, đây là công nghệ phù hợp cho mục tiêu giảm phát thải khí CO2. Có thể nói ở các nước phát triển, thách thức của chi phí đầu tư nằm phần chính ở phần tuân thủ quy định bảo vệ môi trường.

Có 3 dự án tiêu biểu gần đây ở Mỹ đều đầu tư lò luyện thép hồ quang, đó là dự án của Nucor ở West Virginia, dự án nhà máy Big River Steel ở Osceola, Arkansas và dự án của Steel Dynamics ở Sinton, Texas, tất cả đều có công suất khoảng 3 triệu tấn/ năm chủ yếu sản xuất thép cán nóng HRC, loại chất lượng cao dành cho ngành công nghiệp sản xuất ô tô. Sản phẩm cuối cùng là thép tấm mạ kẽm cường độ cao thế hệ 3 (3rd Generation Advanced High Strength Steel- 3 Gen AHSS). Sở dĩ nhấn mạnh điểm này vì gần đây có một số bài báo cho rằng chỉ công nghệ lò cao sản xuất thép từ quặng thì mới có thể sản xuất thép tấm chất lượng cao dành cho ngành công nghiệp ô tô, đây là một nhận định chưa đúng. Các nhà sản xuất thép của Mỹ gần đây đầu tư khá lớn nhằm nâng công suất HRC đáp ứng nhu cầu, dự kiến từ đây tới năm 2025 sẽ có thêm công suất 8 triệu tấn HRC, CRC và GI đi vào hoạt động, điều này có thể dẫn đến giảm nhập khẩu thép dẹt đáng kể. Năm 2021, công suất sản xuất thép của Mỹ đạt hơn 86 triệu tấn/năm, 11 tháng năm 2021 họ đã sản xuất 80 triệu tấn theo American Iron and Steel Institute.

Công suất ngành tôn mạ kẽm Việt Nam hiện tại ước tính khoảng 7.5 triệu tấn, hầu hết phần công suất tăng thêm của giai đoạn 2012-2017 đã đi vào hoạt động đã hơn 5 năm. Sau giai đoạn trầm lắng năm năm để tiêu hóa hết phần công suất này, hiện tại đã xuất hiện các dự án đầu tư mới với ước tính sẽ nâng công suất toàn ngành lên 10 triệu tấn vào năm 2025 và 15 triệu tấn vào năm 2027. Nếu không phát triển được sản phẩm chất lượng cao để khai thác thêm nhu cầu trong nước từ các ngành khác ngoài ngành xậy dựng thì các công ty thép mạ sớm phải đối mặt với cuộc cạnh tranh gay gắt ở thị trường xuất khẩu khi mà thị trường trong nước đã trở lên bé nhỏ so với năng lực sản xuất (Năm 2021 các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất khoảng hơn 6 triệu tấn tôn mạ kẽm mạ màu, tăng 34% so với năm 2020).

Bài viết mang tính chất cá nhân, không đại diện cho các cơ quan và tổ chức tác giả đang làm việc hay cộng tác.

 Phan Đình Long



[1] https://scp.gov.vn/tin-tuc/t12868/phe-duyet-du-an-khung-san-xuat-thep-xanh-tai-nam-dinh.html

[2] https://baodautu.vn/vina-roma-de-xuat-dau-tu-khu-lien-hop-gang-thep-quang-tri-hon-47000-ty-dong-d166762.html

Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2020

Ngành tôn thép mùa covid 19- sự hồi phục ấn tượng

 Năm 2020 là một năm may mắn của ngành thép nói chung và ngành tôn mạ kẽm nói chung của Việt Nam. Không ai có thể ngờ rằng có sự hồi phục nhu cầu tôn mạ rất mạnh mẽ, nhất là quý 3/2020 từ thị trường trong nước cũng như xuất khẩu. Ngành tôn mạ Việt Nam đã trải qua các năm khó khăn, năm 2018: Mỹ đánh thuế thép và nhôm nhập khẩu; năm 2019: chiến tranh thương mại Mỹ - Trung rồi đến 2020 là đại dịch Covid 19. Sản lượng sản xuất tôn mạ hầu như không thay đổi trong 3 năm liên tiếp. Năm 2018: 4.4 triệu tấn, năm 2019: 4.2 triệu tấn; năm 2020: 4.4 triệu tấn. Trong lúc công suất toàn ngành ước tính khoảng 8 triệu tấn, tỷ lệ khai thác chỉ đạt trên 50% một chút. Tuy nhiên, việc thừa công suất phần lớn nằm ở phân khúc máy móc công nghệ lạc hậu nên các công ty chú trọng vào đầu tư thiết bị công nghệ hiện đại và đồng bộ từ Châu Âu, Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc vẫn có dư địa cạnh tranh chiếm thị phần. Người dùng được hưởng lợi nhiều nhất, các sản phẩm cao cấp trong nước có thể sản xuất tốt mà không bị phụ thuộc hoàn toàn vào một hai doanh nghiệp FDI như vài năm về trước. Bên cạnh đó, sản phẩm tôn mạ của Việt Nam cũng có chỗ đứng vững chắc trên thị trường quốc tế, với mỗi năm xuất khẩu khoản 1.4-1.75 triệu tấn, thu về trên một tỷ USD, góp phần giảm bớt lượng nhập siêu sắt thép, mỗi năm khoảng 5 tỷ USD. Thị phần ngành tôn mạ năm 2020 không thay đổi nhiều so với năm 2019, top 5 doanh nghiệp đầu ngành gồm Tôn Đông Á, Hoa Sen, Tôn Phương Nam, Nam Kim và Tân Vạn Phúc vẫn chiếm trên 75% thị phần ngành.

Hình 1: Top năm doanh nghiệp tôn mạ Việt Nam năm 2020


Nguồn: VSA

Nhu cầu thép hồi phục vào quý 2 không chỉ ở Việt Nam mà là bối cảnh chung trên nhiều nước. Chẳng hạn tại Ấn Độ, nhu cầu thép phục hồi từ tháng 5/2020, công suất các nhà máy ở đây đều vận hành đạt mức trước dịch, dù là trong tình hình bị phong tỏa do dịch bệnh. Mặc dù các quốc gia đều cần giải quyết tình trạng thâm hụt tài chính dài hạn, hiện tại chắc chắn còn tồi tệ hơn so với trước đại dịch. Nhưng rõ ràng là hiện nay tất cả đang phải đối mặt với một vấn đề khác nghiêm trọng hơn là thâm hụt ngân sách, đó là dịch bệnh Covid 19. Các quốc gia chắc chắn sẽ tung ra các biện pháp cứu trợ và kích thích kinh tế, chẳng hạn như cắt giảm thuế hoặc tăng chi tiêu nhằm giúp đối phó với virus và chống suy thoái ngay cả khi nó làm tăng thâm hụt ngân sách. Tăng chi tiêu ngân sách bằng đầu tư công vào hạ tầng giao thông, phương tiện vận tải, cung cấp điện, nước là những lĩnh vực mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, điều này lý giải tại sao ngành thép vẫn kỳ vọng vào nhu cầu cao trong các quý tới.

               Dù nhu cầu thép có bão hòa tại từng quốc gia theo mô hình chữ U ngược (U-shape), theo tốc độ tăng trưởng GDP, tuy nhiên xét trên quy mô toàn cầu, thì nhu cầu thép luôn tăng trưởng, chưa bao giờ ngừng nghỉ. Các động lực ở đằng sau thúc đẩy nhu cầu sắt thép chính là: Nhu cầu xây dựng nhà cửa, hạ tầng phục vụ quá trình đô thị hóa trên toàn cầu, nhu cầu cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế, nhu cầu đầu tư vào tài sản (fixed assets) và ngành chế tạo như ô tô, máy móc thiết bị, năng lượng...

Hình 2: Biểu đồ thay đổi tiêu thụ sắt thép bình quân đầu người tại các quốc gia

Nguồn: WSA

Chúng ta thấy trên hình 2, nhu cầu thép của Thụy Điển đạt đã đạt đỉnh từ thế kỷ 18, Anh đạt đỉnh ở thế kỷ 19, Mỹ đạt đỉnh ở giữa thế kỷ 20, sau đó là Nga và Nhật Bản, đạt đỉnh vào cuối thế kỷ 20. Lần lượt tiêu thụ thép bình quân đầu người các quốc gia sẽ đạt đỉnh và sau đó giảm dần tới một mức độ ổn định. Ta thấy Trung Quốc đang trong quá trình lên đỉnh, tương tự tại quốc gia lớn như Ấn Độ, tiêu thụ thép hình quân đầu người hiện chỉ đạt 78Kg, trong lúc bình quân thế giới là 225Kg.

Hình 3: Biểu đồ tăng trưởng sản xuất thép toàn cầu


Nguồn: WSA

Xu hướng phát triển của sản phẩm sắt thép nói chung: Khái niệm clean steel, thị trường ngày càng đòi hỏi thép ít tạp chất hơn nhưng đặc biệt thách thức với chi phí sản xuất thấp hơn. Thị trường đòi hỏi các mác thép thông dụng sẽ phải cải thiện cơ tính nhằm thay thế dần các mác thép chuyên dụng, đây là thách thức nhưng cũng là cơ hội cho các nhà sản xuất đổi mới công nghệ, nghiên cứu phát triển. Khái niệm này cũng được hiểu cho nhu cầu sản xuất sạch đối với ngành thép, được xem là một ngành đứng đầu về khí thải CO2 và đứng thứ hai về tiêu thụ năng lượng!

Đình Long