Câu chuyện quy hoạch ngành thép Việt Nam (Talk of planning
of Vietnam iron & steel sector)[1]
Theo yêu cầu của
Thủ tướng, Bộ Công Thương (BCT) cần hoàn thiện Dự thảo quy hoạch ngành thép đến
năm 2025, định hướng đến năm 2035 để trình Thủ tướng xem xét vào quý 4/2017.
Tháng 1/2017, BCT
mời tư vấn nước ngoài tham gia tư vấn quy hoạch ngành thép Việt Nam, đến cuối
tháng mới chỉ có một đơn vị ngỏ ý. Rồi Vụ công nghiệp nặng (thuộc Bộ Công
Thương) đã cho phép kéo dài thời điểm nộp thầu đến cuối tháng 2/2017[2].
Theo mô tả của Bộ
Công Thương thì các nhà thầu này sẽ tham gia đấu thầu với nhiệm vụ tư vấn: “làm rõ xu hướng phát triển ngành
thép thế giới và khu vực; đồng thời đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành thép
Việt Nam so với khu vực và trên thế giới cũng như việc lựa chọn nhà thầu, công
nghệ và những đánh giá tác động về môi trường”
Không phải câu nệ
câu chữ, tuy nhiên nói thuê tư vấn quy hoạch ngành thép là chưa hợp lý, thực
chất quy hoạch ngành phải từ chiến lược phát triển ngành mà ra, do đó nếu nói
thuê tư vấn chiến lược phát triển ngành thép thì có lẽ là hợp lý hơn. Thứ hai,
câu hỏi là bản thân mình muốn cái gì? Mình muốn cái gì còn chưa được phát biểu
ra cho rõ thì hỏi người khác tư vấn đường đi cho mình liệu có khả thi?
Mà nếu tư vấn chiến
lược phát triển một ngành cho một đất nước càng không phải là chuyện dể, có thể
vài ba tháng là ra ngay chiến lược, vấn đề này phải được nghiên cứu sâu sắc,
toàn diện, không những về các mặt kinh tế mà quan trọng nhất là về mặt địa
chính trị. Do đó, BCT ra đề bài khó mà thời gian chỉ một hai tháng thì phải nói
là bất khả thi, chưa nói là liệu có công ty tư vấn nào trên thế giới có toàn
diện năng lực để tư vấn chiến lược này?
Nhìn lại quá trình phát triển
ngành thép của nước Nhật:
Kết thúc chiến
tranh thế giới thứ hai, một đất nước với hạ tầng đổ nát, trong những năm đầu
của thập niên 50, chính phủ Nhật Bản đã xác định sản xuất sắt thép là một ngành
công nghiệp thiết yếu, là tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế. Thời điểm
đó nền kinh tế Nhật được kiểm soát bởi chính phủ (controlled economy) trước khi
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường (market economy) vào giữa thập niên 60.
Lúc đó chính phủ Nhật Bản điều hành nền kinh tế một cách gián tiếp bằng cách
kiểm soát việc cung cấp nguyên vật liệu thô, kiểm soát công đoạn sản xuất cũng
như công đoạn phân phối sản phẩm. Các chính sách công nghiệp (industrial
policy) thời điểm đó chủ yếu nhằm vào việc phân bổ tài trợ vốn cho việc đầu tư
để phát triển công nghiệp trong nước, trong đó tập trung tài trợ vốn cho các
ngành sắt thép, cung cấp điện và đóng tàu (Iron & Steel, Electric Power,
and Shipbuilding).
Sở dĩ Nhật phải ưu tiên phát triển
ngành công nghiệp sắt thép trước tiên, là do thép là nguyên liệu cơ bản và tối
cần thiết cho tất cả các ngành công nghiệp khác (generative sector), như chế
tạo xe hơi, phương tiện vận tải, đóng tàu, chế tạo máy móc thiết bị, xây dựng
cơ sở hạ tầng & nhà cửa cũng như sản xuất hàng điện máy gia dụng. Đó cũng
là tiền đề để Nhật Bản nhanh chóng trở thành một cường quốc công nghiệp, kim
ngạch xuất khẩu đạt 714 tỷ USD trong năm 2014.
Chiến lược phát
triển ngành thép của Nhật lúc đó là tập trung nhập khẩu công nghệ sản xuất của
Châu Âu Và Mỹ, phát triển các tổ hợp sản xuất thép hiện đại (integrated steel
plants) nằm gần cảng biển, nhập khẩu nguyên liệu thô, chế biến sản xuất ra
thành phẩm, sản phẩm được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu một phần ra
thế giới. Được hỗ trợ của chính sách đúng đắn từ chính phủ, chỉ chưa đầy 20 năm
sau, vào năm 1970 xuất khẩu sắt thép của Nhật Bản đã dẫn đầu trong các lĩnh vực
xuất khẩu với giá trị xuất khẩu 2.8 tỷ USD, chiếm 14.7% tổng kim ngạch xuất
khẩu cả nước. Sản lượng thép Nhật Bản đã đạt đỉnh vào năm 1973 với 120 triệu
tấn, xuất khẩu sắt thép đã đạt đỉnh vào năm 1974 , chiếm tới 19% tổng kim ngạch
xuất khẩu của Nhật Bản lúc đó. Bên cạnh đó chính phủ Nhật Bản áp dụng các chính
sách đồng bộ khác như hàng rào thuế quan, ưu đãi lãi suất… nhằm thúc đẩy sản
xuất thép trong nước, hạn chế nhập khẩu. Điển hình trong năm 1970, kim ngạch
nhập khẩu sắt thép của Nhật Bản chỉ 276 triệu USD
Người Nhật đã có
hơn một thế kỷ kinh nghiệm sản xuất sắt thép từ thời kỳ Edo. Ngay từ thời Minh Trị
-Meiji - (1867-1912) Nhật Bản đã chuyển đổi từ kỹ thuật luyện thép truyền thống
Tatara fuki, vốn luyện thép từ sand iron, tách quặng ra khỏi đất đá bằng cách cho
dòng nước chảy từ đỉnh đồi xuống, sang công nghệ tiên tiến hơn là công nghệ lò
cao (blast furnace). Vào năm 1901 lò blast furnace đầu tiên của Nhật Bản được
xây dựng ở làng Yawata, hình thành nên Yawata steel works, với công nghệ và kỹ
sư của Đức, nhà thầu Gute Hoffnungshutte Co (GHH), đầu tiên lò cao này hoạt
động không thành công, sau đó kỹ sư Nhật đã cải tiến lại và hoạt động hiệu quả,
giai đoạn này cũng đánh dấu năng lực Nhật Bản tự phát triển công nghệ sản xuất
thép của họ. Công trình mà sau này được gọi là Xưởng thép Hoàng Đế (Imperial
Steel Works) và đã được đưa vào di tích lịch sử và được UNESCO công nhận năm
2009. Do đó, họ đã có khả năng làm việc với nhau để tìm ra con đường phát
triển của riêng họ. Thứ hai, họ đã đáp ứng hợp lý các thay đổi của môi trường
kinh tế quốc tế thời kỳ hậu chiến, bằng cách tích cực cũng cố công nghệ trong
nước và đã có một quyết định rất đúng đắn đó là ưu tiên nhập khẩu công nghệ của
nước ngoài. Thứ ba, sự biến mất của nhu cầu quân sự thời hậu chiến cho phép các
ngành công nghiệp sắt thép trở lại phát triển đúng vai trò bản chất của nó là
cung cấp nguồn vật liệu cơ bản cho các ngành công nghiệp khác để xây dựng đất
nước và nâng cao cuộc sống của nhân dân. Thứ tư, quá trình tái cấu trúc nền
công nghiệp Nhật Bản thời bấy giờ đã tạo nên vai trò dẫn đầu to lớn cho các
ngành công nghiệp nặng, công nghiệp hóa chất và công nghiệp chế tạo máy, là
tiền đề trong việc tạo ra một môi trường công nghiệp và công nghệ lý tưởng cho
các nghiên cứu sáng tạo trong ngành thép ngày càng phát triển.
Ngày nay, Nhật Bản
luôn là nước đứng thứ hai về sản xuất thép trên thế giới. Năm 2014, sản xuất
thép đạt 110 triệu tấn, trong đó xuất khẩu 41.2 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu
thép là 36.1 tỷ USD, chiếm 5% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nền kinh tế. Nhập
khẩu chỉ 9.2 triệu tấn, kim ngạch 9.3 tỷ USD, chiếm 1.2% tổng kim ngạch nhập
khẩu của cả nước. Ta thấy rằng, kim ngạch xuất khẩu sắt thép của Nhật Bản đã
suy giảm từ những năm 80, cụ thể năm 1988, kim ngạch xuất khẩu sắt thép của
Nhật Bản chỉ đạt 5.8% tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia. Năm 2014 chỉ đạt 5%
như đã nêu trên. Sở dĩ như vậy là bởi Nhật Bản sau khi tập trung phát triển các
ngành công nghiệp nặng, hóa chất và đóng tàu thì dần dần chuyển đổi sang phát
triển các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao hơn như ngành thiết bị,
linh kiện điện tử, máy vi tính, điện thoại, xe hơi, chế tạo máy móc, lọc dầu…
Tuy nhiên, các lĩnh
vực nhập khẩu, xuất khẩu và kể cả sản xuất của ngành công nghiệp thép Nhật
Bản hiện nay cũng đã bão hòa và đang suy giảm theo như mô hình đàn nhạn bay "flying
geese" mà giáo sư Akamatsu Kaname từng mô tả, dù vậy, họ đã từng là
một quốc gia dẫn đầu về công nghệ luyện thép ngay từ những năm cuối của thập
niên 70, Nhật Bản ngày nay trở thành một trong những nguồn công nghệ chính cho
ngành thép các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc và nhiều quốc gia đang phát triển
khác, trong đó có cả Việt Nam.
Tiếp theo chúng ta
sẽ nghiên cứu xem quá trình phát triển ngành thép của Hàn Quốc, mà đặc biệt là
của tập đoàn POSCO, để thấy rằng con đường phát triển của họ cũng gần giống một
chiến lược như của Nhật Bản. Quá trình phát triển ngành thép Hàn Quốc bị tác
động cũng như hưởng lợi về mặt yếu tố quan hệ quốc tế thời điểm đó (chiến tranh
lạnh) cũng như các yếu tố địa chính trị nhiều hơn.