Thứ Sáu, 14 tháng 7, 2017

Impressive growth of the galvanized steel sheets industry in Vietnam

Picture 1: Galvanizing production at Ton Dong A Corporation
            Vietnam steel industry had an impressive business year in 2016, according to Vietnam Steel Association (VSA), in 2016 the total steel products that VSA member companies produced was 17.5 million tons, up 16.8% over 2015. Consumption reached 15.3 million tons, up 23.7% compared to 2015. In that context, the galvanized steel sheets industry has grown very well, production reached 3.37 million tons, consumption was 2.93 million tons, it was a growth of 25% compared with 2015.
 The galvanized steel sheets industry in Vietnam, temporarily defined in this article, includes coils with over 600 mm width, produced by the continuous galvanizing lines using non-oxidizing furnace technology (NOF). The coating material can be zinc (99.5% Zn) called GI coils or aluminum zinc alloy (55% aluminum + 43.5% zinc + 1.5% silicon) which called GL coils. The galvanized steel sheets industry described in this article also includes the color coated steel sheets & coils (PPGI / PPGL/ PCM).
The level of industry centralization
Vietnam's galvanized steel sheets industry is now considered to be highly centralized, with top 5 leading companies accounting for 77% of total industry output in 2016.
Table 1: Top five leading companies in 2016
Ranking
Companies
Sales in 2016, thousand tons
Products
1
Hoa Sen Group
1242
GI, GL, PPGI, PPGL and GI pipes
2
Nam Kim Group
540
GI, GL, PPGI, PPGL and GI pipes
3
Ton Dong A Corp.
365
GI, GL, PPGI, PPGL
4
Ton Phuong Nam
230
GI, GL, PPGI, PPGL
5
Maruichi Sun Steel
230
GI, GL, PPGI, PPGL and welded steel pipes
The sales of Maruichi Sun Steel was only estimated by author
Source: Annual Reports and VSA
The sales of Hoa Sen and Nam Kim, although were high, however, it included the production of galvanized welded steel pipes, which accounted for a significant volume due to the higher thickness compared with galvanized steel sheets. Welded galvanized steel pipes in Vietnam normally have thickness around 1.2 and 2.0 mm, while galvanized steel sheets in Vietnam have an average thickness of only around 0.3-0.6 mm
The investment overview of the sector
There are currently 11 large galvanizing companies and 5 smaller companies in Vietnam with a design capacity of 4.63 million tons per year, in which mainly about 20 continuous galvanizing lines (CGL) adopted N.O.F. technology, only about two lines used the old technology dry-flux. The 5 small companies are adopting the old technological galvanizing lines which called wet-flux or dry-flux technology, the capacity of these companies is not yet determined.
Those new entrants with high capacity are Hoa Phat, Pomina, My Viet Olympic and Vinaone are expected to make the market more exciting. Leading companies such as Ton Dong A, Nam Kim and Hoa Sen continue to make large investments to scale up, and smaller companies are also developing their investment plans. According to my statistics, by the year 2018, there is about 11 galvanizing lines will be installed, bringing the total coating capacity up to 46%, from the current 4.39 million tons to 6.4 million tons per year or more!
Table 2: Installed capacity and production in recent years
Years
2015
2016
2017E
2018F
Installed capacity, million metric tons
3.39
4.18
4.39
6.40
Production, million metric tons
3.15
3.37
3.63
3.92
Capacity growth rate
23%
5%
46%
Mining factor
93%
81%
63%
61%
Source: Author calculates based on market information and cross-checked with corporates investment announcements
The growth of capacity is almost two-year cycle, due to the time needed to manufacture and installing a continuous galvanizing line is around 16-20 months. Galvanizing manufacturers in Vietnam have a habit of observing market demand and looking at the movement of each other to invest, therefore, the capacity is normally increases with the same cycle. Table 2 shows mining factor is decreasing, it may show that the supply is higher than the demand
The capacity galvanizing steel coils will be 6.4 million tons per year for a country of 100 million people is a hard-to-imagine figure. Compared to India: With a population of 1.36 billion people and a country with a longer steel industry than Vietnam, there are many large steel companies ranking in the world, such as JSW or Tata, with total steel output in 2016 was 95.6 million tonnes, ranking third in the world, however, its total galvanized steel sheets production in 2016 was 6.4 million tonnes only!
However, the investment speed in expanding production in the galvanizing industry seems not slowdown at all, many people have asked author whom will consume that such large production. Of course, the galvanizing makers do not invest without calculation, they can see the current demand as well as forecast the potential demand through daily business. I hope can make clear this question mark in the forthcoming SWOT analysis of Vietnam's galvanized steel industry
Development strategies of Vietnam's galvanized steel industry
Development strategies are currently in widespread used:
-        Horizontal development: Invest in increasing the scale of production. Steel enterprises in Vietnam at the moment do not have M&A practice, thus, increasing financial leverage to invest or going to public to raise capital as common options
-        Vertical development: Large galvanized steel sheet manufacturers such as Ton Dong A, Nam Kim and Hoa Sen have always tended to have investments of integrating the supply chain, which are indispensable conditions for controlling raw materials and reducing production costs in order to increase profit margins. One typical example that is the movement of increasing the cold rolling capacity: Currently, the cold rolling capacity is more than 5 million tonnes produced by 15 reversing cold rolling mills, almost the mills are single-stand mills (CRM), including two double stands reversing cold rolling mills. Estimating there are three more double stands mills will be operated in 2017-2018. The cold rolling capacity will be increased 3.6 million tonnes more in 2017-2018, thus the rolling capacity of Vietnam will be 8.6 million tonnes per year in 2018. There are some signals indicated that the large GI makers are considering to invest the tandem cold mills (TCM).
-        Product diversification: One example that is the galvanized steel sheet manufacturers join increasingly more in the steel pipe market. The other movement is the improvement of product quality to penetrate the high quality products markets such as home appliances and the car industry. This strategy requires a long-term effort, requiring management, technology and capital capability
-        Of course, the steel makers of Vietnam always try to restructure the organization system and re-designing the management system towards modern structures, building and developing human resources in accordance with world standards.

Part 2: SWOT Analysis of Vietnam’s galvanized steel industry

     Phan Dinh Long

Thứ Bảy, 1 tháng 7, 2017

Sự tăng trưởng ấn tượng của ngành tôn mạ kẽm Việt Nam

Hình 1: Sản xuất tôn mạ lạnh tại Công ty Cổ Phần Tôn Đông Á
            
             Năm 2016 là một năm có kết quả sản xuất kinh doanh rất ấn tượng đối ngành thép Việt Nam, theo Hiệp Hội Thép VN (VSA), trong năm 2016 tổng các loại sản phẩm thép mà các doanh nghiệp là thành viên của VSA sản xuất đạt 17,5 triệu tấn, tăng 16,8% so với  năm 2015. Lượng tiêu thụ đạt 15,3 triệu tấn, tăng 23,7% so với năm 2015. Không nằm ngoài đà tăng trưởng chung của ngành, ngành tôn mạ kẽm có sản lượng sản xuất đạt 3,37 triệu tấn, tiêu thụ đạt 2,93 triệu tấn, tăng trưởng 25% so với năm 2015.
  Ngành tôn mạ kẽm, tạm định nghĩa bao gồm các loại thép tấm dạng cuộn (coil) khổ rộng lớn hơn 600mm, được sản xuất bởi các dây chuyền mạ liên tục theo công nghệ lò ủ không ô-xy hóa (non-oxidizing furnace - NOF). Vật liệu lớp mạ có thể là kẽm (99.5% Zn) hoặc hợp kim nhôm kẽm (55% Nhôm + 43.5% Kẽm + 1.5% Silic), còn gọi là tôn lạnh. Ngành tôn mạ kẽm cũng bao gồm cả các sản phẩm tôn mạ màu dạng cuộn, tức là tôn mạ kẽm hoặc mạ lạnh được phủ màu. Ngành tôn mạ kẽm không bao gồm sản phẩm ống thép hàn mạ kẽm, tuy nhiên hiện tại rất khó tách bạch phần sản lượng các công ty sản xuất tôn cắt thành băng để cuốn lại hàn thành ống ra khỏi phần sản lượng tôn dùng nguyên tấm dành cho tấp lợp, tấm tráp vách, hoặc sản xuất trần la-phong, đồi nội thất…
Một số định nghĩa:
-        Tôn mạ kẽm: Thế giới gọi là GI (Galvanized), Zinc coated steel sheet/coil, GP- Galvanized Plain Steel Sheet/coils. Thực tế có rất nhiều biến thể của lớp kim loại mạ mà thành các loại khác như galfan (GF), galvannealed (GA)...
-        Tôn mạ lạnh: Thế giới gọi là GL (Galvalume), 55Al-Zn alloy coated, Al-Zn-Si alloy…Trong ngành xây dựng trên thế giới không quá phân biệt giữa tôn mạ lạnh và tôn mạ kẽm (gọi tắt là tôn lạnh, tôn kẽm) mà chỉ phân biệt trong ngành sản xuất ô-tô và thiết bị gia dụng là chính. Lý do tại thời điểm hiện tại, lớp mạ kẽm có độ bám dính cao hơn lớp mạ lạnh do đó chỉ có tấm mạ kẽm là có thể sử dụng cho các công đoạn dập sâu trong ngành sản xuất vỏ xe hơi
-        Tôn mạ màu, tiếng Anh là PPGI hoặc PPGL (Pre-painted Galvanized/ Pre-painted Galvalume) hoặc là PCM (Pre-coated Metals) hoặc đơn giản là Color coated steel
-        Thép ống mạ kẽm cần phân biệt hai loại sau: loại thông dụng trên thế giới là thép cán nguội/ cán nóng đem đi cắt băng sao đó cuốn thành ống hàn rồi đem đi nhúng vào bể kẽm để mạ, loại ống này thường dùng trong công nghiệp, ví dụ như ống khí nén, ống cấp thoát nước. Ống có lớp mạ kẽm dày nhưng bề mặt không đẹp, tuy nhiên ống có độ bền cao, loại này SeAH, Sunsco và Hòa Phát có sản xuất. Loại thông dụng ở Việt Nam là loại ống được sản xuất từ tôn cuộn mạ kẽm, tức là tôn kẽm cắt băng ra rồi cuốn thành ống và hàn lại mà không cần phải đem đi mạ nhúng nữa. Loại này chỉ có ứng dụng trong ngành xây dựng như làm giàn giáo, lan can, cầu thang, hàng rào, cop-pha, ống điện ngầm conduit, thang máng cáp điện…Như vậy có thể thấy các công ty trong ngành tôn mạ kẽm như HSG, NKG chỉ tập trung sản xuất loại ống mạ kẽm thứ hai.
Mức độ tập trung hóa của ngành
Ngành tôn mạ kẽm của Việt Nam hiện tại có thể xem là có mức độ tập trung hóa cao, tốp 5 công ty đầu ngành có sản lượng chiếm đến 77% tổng sản lượng toàn ngành năm 2016
Bảng 1: Năm công ty dẫn đầu ngành tôn mạ kẽm năm 2016
Xếp hạng
Công ty
Sản lượng bán hàng 2016, ngàn tấn
Sản phẩm
1
Hoa Sen Group
1242
Tôn mạ kẽm, mạ lạnh, mạ màu và ống thép hàn mạ kẽm
2
Nam Kim Group
540
Tôn mạ kẽm, mạ lạnh, mạ màu và ống thép hàn mạ kẽm
3
Ton Dong A Corp.
365
Tôn mạ kẽm, mạ lạnh và mạ màu
4
Ton Phuong Nam
230
Tôn mạ kẽm, mạ lạnh và mạ màu
5
Maruichi Sun Steel
230
Tôn mạ kẽm, mạ lạnh, mạ màu và ống thép
Sản lượng bán hàng của Maruichi Sun Steel tác giả chỉ ước tính
Nguồn: Báo cáo thường niên của các công ty và VSA
Sản lượng bán hàng của Hoa Sen và Nam Kim tuy cao nhưng trong đó đã bao gồm phần sản lượng ống thép hàn vốn chiếm một khối lượng đáng kể do có độ dày cao hơn tôn mạ. Ống thép hàn ở Việt Nam có độ dày thông dụng trong khoảng từ 1,2 – 2,0 mm, trong lúc tôn mạ ở VN có độ dày trung bình chỉ trong khoảng từ 0,3-0,6mm.
Bức tranh đầu tư phát triển ngành
Ngành tôn mạ Việt Nam hiện có khoảng 11 công ty lớn, với công suất thiết kế là 4.63 triệu tấn/ năm, tổng cộng khoảng 20 dây chuyền mạ kẽm liên tục (CGL- Continuous Galvanizing/Galvalume Line), phần lớn áp dụng công nghệ NOF, chỉ còn khoảng 2 dây chuyền áp dụng công nghệ cũ Dry-flux. Ngoài ra còn có khoảng 5 công ty nhỏ có một số dây chuyền vẫn áp dụng công nghệ Wet-flux hoặc dry-flux, công suất các công ty này hiện chưa xác định được.
Người mới gia nhập ngành với công suất lớn là Hòa Phát, Pomina, Mỹ Việt Olympic và Vinaone dự kiến sẽ làm thị trường thêm sôi động. Các công ty đầu ngành như Tôn Đông Á, Nam Kim và Hoa Sen tiếp tục đầu tư lớn để nâng quy mô, các công ty quy mô nhỏ hơn cũng đang triển khai các kế hoạch đầu tư của họ, do đó theo tác giả thống kê, đến năm 2018 dự kiến sẽ có thêm khoảng 11 dây chuyền mạ đi vào hoạt động, nâng tổng công suất sản xuất toàn ngành mạ sẽ tăng thêm 46%, từ 4.39 triệu tấn hiện nay lên đến 6.4 triệu tấn hoặc hơn!
Bảng 2: Công suất lắp đặt và sản lượng sản xuất ngành tôn mạ kẽm
Năm
2015
2016
2017E
2018F
Công suất lắp đặt, triệu tấn
3.39
4.18
4.39
6.40
Sản lượng, triệu tấn
3.15
3.37
3.63
3.92
Tăng trưởng công suất

23%
5%
46%
Tỷ lệ khai thác
93%
81%
63%
61%
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên thông tin thị trường có kiểm tra chéo với công bố đầu tư của các công ty
Công suất mạ kẽm đạt 6.4 triệu tấn/ năm đối với một đất nước 100 triệu dân là một con số rất khó tưởng tượng cách đây một hai năm. Thử so sánh với đất nước Ấn Độ: Với dân số 1.36 tỷ người, và là một đất nước có ngành thép lâu đời hơn Việt Nam, có rất nhiều công ty thép lớn có nhà máy tích hợp integrated steel works lớn hàng đầu thế giới như JSW hay Tata. Sản lượng toàn ngành thép Ấn Độ năm 2016 là 95.6 triệu tấn, xếp hạng thứ 3 thế giới, vậy mà tổng sản lượng tôn mạ họ sản xuất ra năm 2016 cũng chỉ đạt 6.4 triệu tấn!
Tuy vậy, tình hình đầu tư mở rộng quy mô sản xuất trong ngành tôn mạ kẽm dường như vẫn chưa hề hạ nhiệt, rất nhiều người hỏi tác giả rằng sản lượng tôn mạ lớn như vậy sẽ được bán cho ai, thậm chí là người trong ngành cũng không hiểu nhu cầu đến từ đâu mà đầu tư nhà máy mạ nhiều vậy. Đương nhiên các nhà sản xuất tôn mạ không đầu tư mà không có tính toán, họ nhìn thấy hoặc cảm thấy nhu cầu hiện tại cũng như nhu cầu tiềm năng qua hoạt động kinh doanh hàng ngày. Tác giả hy vọng có thể giải đáp phần nào vấn đề này trong bài phân tích SWOT ngành tôn mạ kẽm sắp tới.
Sở dĩ tốc độ tăng công suất có chu kỳ gần như hai năm một lần là do thời gian đầu tư và lắp đặt một dây chuyền mạ kẽm trung bình từ 16-20 tháng, sau đó tùy thuộc vào tình hình chạy thử có khi mất gần 2 năm để đạt đến công suất thiết kế. Các nhà sản xuất tôn mạ của Việt Nam có tập quán quan sát nhu cầu của thị trường đồng thời nhìn nhau để đầu tư do đó thường công suất tăng có cùng chu kỳ. Bảng 2 cho thấy tỷ lệ khai thác công suất có dấu hiệu giảm xuống có thể cho thấy tốc độ cung tăng cao hơn tốc độ cầu
Chiến lược phát triển ngành
Các chiến lược phát triển đang áp dụng phổ biến hiện nay:
-        Phát triển theo chiều ngang: đầu tư gia tăng quy mô sản xuất. Các doanh nghiệp Việt Nam ngành tôn mạ chưa có tập quán M&A, do đó tăng đòn bẩy tài chính để đầu tư hoặc niêm yết sàn chứng khoán hoặc bán cổ phần cho cổ đông chiến lược để huy động vốn là các lựa chọn phổ biến
-        Phát triển theo chiều dọc: các nhà sản xuất tôn mạ lớn như Tôn Đông Á, Nam Kim và Hoa Sen luôn có xu hướng đầu tư tích hợp để khép kín chuỗi sản xuất ngành, đây là điều tất yếu để kiểm soát nguồn nguyên liệu, giảm chi phí sản xuất và gia tăng tỷ suất lợi nhuận. Đầu tư vào hệ thống phân phối để gia tăng sản lượng bán hàng
-        Đa dạng hóa sản phẩm: điển hình như các nhà sản xuất tôn mạ gia nhập ngày càng mạnh thị trường ống thép. Nâng cao chất lượng sản phẩm để thâm nhập các thị trường sản phẩm chất lượng cao như thiết bị gia dụng và ngành xe hơi. Chiến lược này đòi hỏi một nỗ lực dài hơi, đòi hỏi năng lực quản trị, công nghệ và vốn
-        Tái cơ cấu bộ máy quản trị và nâng tầm quản trị theo hướng hiện đại, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực theo các chuẩn mực trên thế giới.
       Phần 2: Phân tích Swot ngành tôn mạ kẽm
       Phan Đình Long