A brief history of Vietnam's
galvanizing industry.
Giai
đoạn 1990 – 2000: Buổi bình minh của ngành tôn mạ kẽm Việt Nam.
Khoảng
cuối thập niên 60, ở miền nam Việt Nam đã có một số nhà máy sản xuất tôn lá mạ
kẽm, với công nghệ và thiết bị của Nhật Bản. Các dây chuyền này sử dụng tôn
nguyên liệu dạng tấm để mạ, sử dụng phương pháp gia nhiệt bằng lớp chì trong chảo
mạ. Chiều dày lớp kẽm bám trên hai mặt băng tôn được điều chỉnh bằng cách điều
chỉnh khe hở một cặp trục, gọi là trục mạ. Có thể nói đây là giai đoạn sơ khai của
ngành tôn mạ kẽm Việt Nam, giai đoạn này tôn nguyên liệu (thép cán nguội) chủ yếu
nhập khẩu từ Liên Xô, Nhật Bản, Hàn Quốc. Sau năm 1975 các nhà máy này được tiếp
quản và chuyển về nhà máy Vinaton. Từ khoảng năm 1987 -1991 là giai đoạn nhà
máy Vinaton khôi phục lại sản xuất cho hai dây chuyền mạ tấm, cải tạo một số
thiết bị để có thể thay thế phụ tùng ở Việt Nam.
Giai
đoạn thành hình mạnh mẽ của ngành tôn mạ kẽm Viêt Nam có lẽ được khởi đầu khi tập
đoàn thép Posco của Hàn Quốc ký kết hợp tác với nhà máy Vinaton để thành lập
nên công ty liên doanh Posvina vào tháng 4/1992. Mặc dù mang danh nghĩa liên kết
với một tập đoàn thép tầm cỡ thế giới lúc bấy giờ, tuy nhiên thực chất Posvina
không được hỗ trợ kỹ thuật công nghệ gì về ngành mạ kẽm, thay vào đó đội ngũ kỹ
thuật của nhà máy tự nghiên cứu và cải tạo dây chuyền từ mạ tấm (mạ lá) sang kiểu
mạ cuộn, một số thiết bị được nhà máy tự thiết kế và đặt gia công chế tạo trong
nước như máy xả cuộn và máy cuốn cuộn. Khi Posvina thực hiện xong việc cải tạo
dây chuyền mạ lá thành mạ cuộn thì trong ngành cũng có một số nhà máy bắt đầu
chế tạo lắp đặt dây chuyền mạ kẽm kiểu này. Mãi sau này đến năm 2002, Posvina mới
nâng cấp dây chuyền mạ kẽm lên kiểu có hai tháp bù. Năm 2002 Posco E&C, một
công ty con của Posco cung cấp dây chuyền mạ màu đầu tiên cho Posvina. Dây chuyền
có tốc độ trung tâm lớn nhất 30 m/phút, công suất 22,000 tấn/năm. Lúc đó công
suất nhà máy tôn mạ kẽm và mạ màu này là 40,000 tấn/năm. Posvina được xem như
cái nôi đầu tiên trong việc cung cấp nhân lực kỹ thuật và công nghệ cho ngành
tôn mạ kẽm của Việt Nam. Giai đoạn này sử dụng công nghệ mạ trục và trợ dung ướt
(wet-flux) hoặc trợ dung khô (dry-flux), vẫn sử dụng phương pháp mạ từ tấm ra tấm
(sheet to sheet) rất lạc hậu, công suất thấp, môi trường sản xuất đặc biệt độc
hại do hơi lưu huỳnh chống ôxy hóa tại chảo mạ. Công nghệ mạ trục phổ biến trên
thế giới trong khoảng từ những năm 1930-1970, vốn có giới hạn tốc độ lớn nhất
chỉ 60 m/phút, tuy nhiên do vốn đầu tư cho dự án rất hạn chế thời bấy giờ nên
Việt Nam vẫn phải sử dụng những công nghệ rất cũ, lạc hậu gần 30 năm so với thế
giới. Mãi cho đến những năm 1998-99 công nghệ mạ ở Việt Nam cũng chưa có thay đổi
lớn, chỉ trừ Posvina nâng cấp từ mạ tấm lên mạ cuộn (coil to coil) và lắp dao
gió cho dây chuyền mạ, đánh dấu lần đầu công nghệ mạ dao gió được áp dụng tại
nước ta. Công suất mạ toàn ngành rất thấp, chưa tới 100,000 tấn/năm.
Mốc
hình thành một số nhà sản xuất tôn mạ kẽm chính như sau:
Năm
1996: Cty Liên doanh Maruviena đưa vào vận hành dây chuyền mạ kẽm đầu tiên.
Năm
1997: Cty Liên doanh Tôn Phương Nam bắt đầu vận hành dây chuyền mạ kẽm đầu tiên.
Năm
1998: Tôn Đông Á thành lập, năm 1999 đưa vào vận hành dây chuyền mạ kẽm đầu
tiên.
Năm
1999: Tôn Phước Khanh đầu tư nhà máy mạ.
Năm
2001: Tôn Hoa Sen ra đời
Năm
2002: Tôn Nam Kim ra đời
Năm
2003: Tân Vạn Phúc xây dựng nhà máy mạ ở Long An
Năm
2004: Lilama đầu tư một nhà máy tôn mạ kẽm mạ màu ở Vĩnh Phúc, sau chuyển thành
VN Steel Thăng Long.
Năm
2005: Bluescope Steel Vietnam đưa vào hoạt động nhà máy sản xuất thép mạ hợp
kim nhôm - kẽm và mạ màu đặt tại khu công nghiệp Phú Mỹ 1, tỉnh BR-VT, sau đổi
tên thành NS Bluescope.
Năm
2005: Sunsco (Maruichi Sun Steel) đưa vào hoạt động dây chuyền mạ kẽm đầu tiên
tại Bình Dương, mặc dù đã được thành lập khá lâu trước đó, vào năm 1996 với tên
Vina Tafong Iron & Steel.
Giai
đoạn 2000 – 2010: Hình thành ngành và giai đoạn cấu trúc ngành lần thứ nhất.
Năng
lực sản xuất của ngành mạ kẽm có một bước tiến lớn vào năm 2004, từ con số 100
ngàn tấn/ năm nhảy vọt lên hơn 500 ngàn tấn/năm. Đây là thời kỳ bùng nổ lần thứ
nhất của ngành tôn mạ kẽm Việt Nam, thay đổi lớn nhất trong thời kỳ này là bắt
đầu phổ biến ứng dụng công nghệ dao gió trong công đoạn mạ kẽm từ năm 2004.
Công nghệ sử dụng không khí nén hoặc khí ni-tơ với áp suất thấp và lưu lượng
cao để điều khiển lớp mạ chất lỏng vốn được sử dụng từ rất nhiều năm về trước
trong ngành công nghiệp sản xuất giấy. Mãi cho đến những năm đầu thập niên 70
thì người ta mới sử dụng công nghệ này vào ngành mạ kẽm, đi đầu là nhà sản xuất
thép mạ kẽm của Úc, John Lysaght, lúc đó họ có đã có 5 dây chuyền mạ kẽm liên tục
sử dụng dao gió. Ở Việt Nam thì công nghệ mạ dao gió đầu tiên được triển khai tại
nhà máy Posvina với thiết bị dao gió được cung cấp bởi GTE, một nhà cung của Hàn
Quốc, lắp đặt và đưa vào hoạt động trong năm 1998.
Dù
sản xuất trong nước có sản lượng nhảy vọt tới năm lần so với năm 2000 thì nhu cầu
tôn mạ kẽm vẫn rất cao, gấp 1.5 lần so với năng lực sản xuất trong giai đoạn
này. Cầu lớn hơn cung nên thị trường là của người bán, người mua không quan tâm
đến chất lượng. Một thời kỳ ngọt ngào!
Huy
hoàng không được lâu, chỉ sau một năm, đến 2005 thì ngành tôn mạ Việt Nam gặp
cuộc khủng hoảng lần thứ nhất, cả sản xuất và tiêu thụ đều giảm hơn 10% so với
năm 2004. Tình hình này cũng là chung cho ngành thép, nguyên nhân chính là sự
tăng giá thép cán nóng (Hot Rolled Coils -HRC) liên tục từ 2004 cho đến đầu
2005 và giảm mạnh vào giữa cuối năm 2005.
Từ
2005 đến 2010 ngành tôn mạ Việt Nam có những bước phát triển tốt, sản lượng tôn
mạ sản xuất trong nước đã đạt trên 1,2 triệu tấn vào năm 2010. Đây là giai đoạn
bắt đầu hiện đại hóa ngành tôn mạ kẽm, các nhà
sản xuất tập trung vào đầu tư dây chuyền mạ kẽm với công nghệ hiện đại,
sử dụng dao gió thế hệ mới, sử dụng lò ủ không ô-xy hóa (Non Oxidizing Process
- N.O.F.) và chảo mạ kẽm ceramic gia nhiệt bằng các cuộn cảm (inductor) từ năm
2008 trở đi. Quy trình NOF vốn được phát triển vào thập niên 60, là một bước cải
tiến lớn từ quy trình Sendzimir có từ thập niên 50, quy trình này gia nhiệt
băng tôn dưới ngọn lửa trực tiếp đạt đến 600-650℃ trong khoang lò được khử hết
Oxy, mục đích để đốt cháy lượng dầu bảo vệ và dầu cán trên bề mặt băng tôn, đồng
thời tẩy lớp rỉ sét trên bề mặt băng tôn. Sau công đoạn này là công đoạn khử
oxit sắt (reduction) để hoàn nguyên băng tôn trước khi xuống chảo mạ, tạo tiền
đề cho lớp kẽm phản ứng với sắt để bám dính tốt lên băng tôn. Sơ lược vậy để thấy
ngành mạ nước ta đã từng lạc hậu như thế nào, phải đến 40 năm sau khi ra đời quy
trình này mới được đưa vào ứng dụng.
Đặc
biệt giai đoạn này đánh dấu việc ngành mạ kẽm Việt Nam bắt đầu tự sản xuất được
tôn nguyên liệu, tức thép cán nguội (Cold Rolled Coils - CRC), sản lượng thép
cán nguội đạt 1,75 triệu tấn vào năm 2010.
Giai
đoạn 2010 – 2020: Giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ của ngành tôn mạ kẽm, tái cấu
trúc ngành lần hai.
Khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, để lại nhiều hệ lụy cho các quốc gia, đặc biệt
là đối với Việt Nam, khi mà trong giai đoạn 5 năm 2002-2007, VN luôn ưu tiên
cho tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 7.8% và để tình trạng
thâm hụt thương mại kéo dài. Đến khi khủng hoảng tài chính xảy ra thì kinh tế
Việt Nam luôn nằm trong đà tăng trưởng thấp và lạm phát cao, đỉnh điểm của lạm
phát năm 2008 là 20% và kéo dài cho đến năm 2011 thì nền kinh tế gặp rất nhiều
khó khăn chồng chất thêm: Lạm phát vẫn ở mức cao, hơn 18%, lãi vay ngân hàng
lên tới 24%, nhà nước tái cấu trúc ngành ngân hàng và giữ trần lãi suất huy động
ở 14%, điều chỉnh giảm giá đồng tiền so với USD 9.3%. Thị trường bất động sản
đóng băng, giá vàng tăng vọt lên 45 triệu đồng/ lượng, VNindex sụt giảm nghiêm
trọng từ trên 500 điểm xuống dưới 350 điểm. Trong bối cảnh đó, ngành thép Việt
Nam nói chung cũng như ngành tôn mạ nói riêng gặp rất nhiều khó khăn. Có thể
nói đây là cuộc khủng hoảng lần thứ hai của ngành tôn mạ rất non trẻ. Đây là
năm đầu tiên mà sản lượng tôn mạ sản xuất trong nước vượt nhu cầu tiêu thụ, sản
xuất đạt 1,5 triệu tấn nhưng tiêu thụ thấp hơn số đó.
Tái
cấu trúc ngành lần thứ hai
Sau
cuộc khủng hoảng lần này, ngành tôn mạ kẽm đã bắt đầu hình thành một cấu trúc
ngành mới, xuất hiện các công ty dẫn đầu có thị phần vượt trội, mức độ tập
trung ngành rất cao, thị trường phần lớn nằm trong tay 5 doanh nghiệp đầu
ngành. Năm 2016, tốp 5 công ty đầu ngành có sản lượng chiếm tới 77% tổng sản lượng
toàn ngành[1]. Đặc
trưng của giai đoạn này là thiên về tăng trưởng số lượng hơn là chất lượng. Các
công ty đều cố gắng kéo dài chuỗi sản xuất tối đa nhằm tìm thêm giá trị gia
tăng để đối đầu với cuộc cạnh tranh giá rất gay gắt. Phải nói là chiến lược dẫn
đầu chi phí thấp bằng lợi thế quy mô năng lực sản xuất, chiếm lĩnh thị phần là
xu hướng chủ đạo.
Giai
đoạn 2012-2017 là giai đoạn bùng nổ đầu tư mở rộng quy mô sản xuất ngành. Công
suất đầu tư tăng vọt lên rất nhiều so với giai đoạn đầu tư trong những năm
2005-2010. Trong xu hướng đó đã có một số các doanh nghiệp chọn xu hướng tăng
trưởng quy mô vừa phải nhưng tăng cường đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm bằng
cách lựa chọn đầu tư các công nghệ mới hàng đầu từ Nhật Bản và Châu Âu, điển
hình là Tôn Đông Á hay các công ty mới tham gia ngành vào 2018 - 19 như Hòa
Phát hay Pomina. Từ năm 2016, thị trường đã có xu hướng dịch chuyển mạnh về hướng
chất lượng sản phẩm nên một số công ty có thị phần lớn buộc phải theo đuổi chiến
lược này như Nam Kim hay Hoa Sen.
Giai
đoạn tái cấu trúc ngành lần này là sự nổi lên dành thị phần của các công ty
trong nước như Tôn Đông Á, Hoa Sen, Nam Kim, Phương Nam và Tân Vạn Phúc, các
công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài như Maruichi Sun Steel, NS Bluescope, CSVC
đã lọt ra ngoài bảng xếp hạng top 5-7 công ty đầu ngành. Về mặt chất lượng sản
phẩm, các công ty này cũng bị cạnh tranh rất mạnh bởi các doanh nghiệp nội đi
theo hướng chất lượng, điển hình như Tôn Đông Á, một trong những công ty có những
sản phẩm mạ kẽm, mạ lạnh và mạ màu có thể cạnh tranh về mặt chất lượng với sản
phẩm với các công ty này. Nhiều công ty khác cũng bị loại ra trong bảng xếp hạng
từ những năm giữa thập niên 2000s, chẳng hạn như Posvina, Đại Thiên Lộc, Tân
Phước Khanh… Năm 2014 cũng chứng kiến sự giải thể của liên doanh Posvina, chấm
dứt sứ mạng 16 năm như là một chất xúc tác cho ngành mạ Việt Nam phát triển.
Những
dấu hiệu của đợt tái cấu trúc ngành lần thứ ba
Cuộc
khủng hoảng ngành mạ lần thứ ba cũng xảy ra trong thập niên này, đó là hệ lụy của
cuộc tranh chấp về thuế giữa Mỹ và Trung Quốc kéo theo các khoản thuế nhập khẩu
các sản phẩm thép vào Mỹ tăng cao, nhiều hàng rào phòng vệ thương mại lần lượt
được dựng lên, bắt đầu từ Mỹ, Trung Quốc, sau đó lan rộng ra các khu vực Châu
Á, Châu Âu và toàn cầu.
Ngày
08/03/2018, Mỹ đã ban hành quyết định áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu thép
và nhôm theo Section 232 đạo luật Thương mại mở rộng năm 1962, bằng hình thức
tăng thuế nhập khẩu. Trong đó, một số sản phẩm thép và nhôm nhập khẩu vào Hoa Kỳ
sẽ phải chịu mức thuế 25% với thép và 10% với nhôm, bao gồm các sản phẩm của
ngành tôn mạ kẽm: mạ lạnh, mạ kẽm và mạ màu.
Tổng
công suất ngành mạ Việt Nam hiện đã đạt đến 7 triệu tấn/ năm, trong lúc đó tiêu thụ nội địa chỉ khoảng 4 triệu tấn/năm, nhập khẩu sản phẩm mạ khoảng 1.5 triệu
tấn/năm, do đó hàng năm thường xuất khẩu đi 1.5 triệu tấn, vốn cũng chỉ mới
khai thác khoảng 60% công suất, hiện nay thị trường xuất khẩu đã bị co hẹp đáng
kể làm cho dư cung rất lớn. Từ quý 2-3 năm 2018 toàn ngành mạ đã thu hẹp sản xuất,
có công ty phải cắt giảm đến 25% lực lượng lao động, đóng cửa tạm thời hoặc cắt
giảm sản lượng nhiều nhà máy. Nhiều công ty bán bớt các nhà máy, cơ sở, bán cả
nhà máy đang xây dựng để thu hồi vốn đầu tư tăng cường vốn lưu động để giảm áp
lực tài chính. Phần lớn các nhà máy chỉ duy trì được công suất đạt 50-60% so với
định mức.
Cuộc
khủng hoảng lần này hầu như đã được dự đoán trước, khi mà trong thời kỳ
2012-2017 xảy ra sự bùng nổ trong đầu tư mở rộng quy mô sản xuất của ngành mạ,
rất nhiều nhà phân tích đã đưa ra các cảnh báo lệch pha cung cầu rất nghiêm trọng
tuy nhiên có vẻ như các nhà sản xuất tôn mạ vẫn chưa tính là sẽ có một cuộc khủng
hoảng đến sớm như vậy. Cuộc khủng hoảng lần này dù chỉ mới xảy ra hơn một năm
nhưng đã cho thấy sự tái cấu trúc thị trường đang diển ra mạnh mẽ nhất từ trước
đến nay. Các công ty định hướng quy mô đang nhường thị phần cho các công ty định
hướng theo chất lượng sản phẩm: Hoa Sen đã giảm 28% thị phần, từ mức 35% của
năm trước còn lại hơn 25%, tương tự Nam Kim giảm từ 14% xuống còn 12%. Trong
lúc đó mức tăng trưởng thị phần của Tôn Đông Á đạt 32%, tăng từ mức 14% lên
18.5%, tương tự Tôn Phương Nam tăng trưởng từ 7% lên 9.45%.
Nguồn: VSA
Giai
đoạn 2020 – 2030: Giai đoạn bão hòa và ổn định, tái cấu trúc ngành lần thứ ba
Giai
đoạn 10 năm tới thị trường tôn mạ kẽm Việt Nam sẽ có nhiều biến chuyển mặc dù
công suất ngành sẽ tương đối ổn định, mảng thị trường tấm lợp sẽ bão hòa. Thứ
nhất là mức độ tập trung ngành sẽ giảm đi, tức có nhiều công ty có thị phần
tương đương nhau trong top 5-7 doanh nghiệp đầu ngành. Thứ hai là các doanh
nghiệp định hướng sản phẩm chất lượng cao và có quy mô sản xuất khá lớn sẽ chiếm
thế tiên phong. Sẽ có nhiều phân khúc sản phẩm mới ra đời, tôn mạ kẽm không chỉ
dùng cho tấm lợp mà sẽ dần bước sang cung ứng cho ngành công nghiệp điện máy
gia dụng như tivi, tủ lạnh, máy giặt, lò nướng, máy điều hòa không khí... Thứ
ba là các công ty bắt đầu chuyển sang cạnh tranh nhau bằng dịch vụ khách hàng
và thương hiệu, nhất là trong mảng thị trường tấm lợp, lý do chất lượng sản phẩm
các công ty sẽ dần tiệm cận đến nhau. Thứ tư là giai đoạn này sự phát triển của
ngành ưu tiên phát triển theo chiều sâu và nâng cao chất lượng sản phẩm đồng thời
kéo dài chuỗi sản xuất ra thêm. Thứ năm là xu hướng nghiên cứu để sản xuất sản
phẩm mới, chẳng hạn tôn mạ kẽm có chứa thành phần Ma-giê. Thứ sáu là sự đe dọa
của sản phẩm thay thế đến từ ngành thép không rỉ, ngành nhôm hay sản phẩm nhựa ngày càng lớn.
Bài viết có sử dụng một số thông
tin từ các đàn anh đi trước, xin cám ơn anh Nguyễn Kim Quy, nguyên Phó phòng kỹ thuật
Công ty Liên doanh Posvina và anh Ngô Ngọc Bách, nguyên Phó giám đốc Công ty
Liên doanh Maruviena về các thông tin và tư liệu quý báu.
Đình Long